Ung thư tuyến tiền liệt phát triển trong tuyến tiền liệt ở nam giới, tuyến này có kích thước bằng quả óc chó ngay dưới bàng quang, sản xuất chất lỏng tinh dịch. Đây là bệnh ung thư phổ biến nhất ở nam giới sau ung thư da. Ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển rất chậm và có thể không gây ra tổn thương đáng kể. Nhưng một số loại nghiêm trọng hơn và có thể di căn nhanh chóng nếu không điều trị.
Các triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt
Trong giai đoạn đầu, có thể không có triệu chứng. Nhưng sau đó, các triệu chứng có thể gồm:
- Đi tiểu thường xuyên, đặc biệt là vào ban đêm.
- Khó khăn khi đi tiểu hay nín tiểu.
- Dòng nước tiểu yếu hay bị gián đoạn.
- Cảm giác đau hoặc nóng rát khi đi tiểu hoặc xuất tinh.
- Có máu trong nước tiểu hay tinh dịch.
- Ung thư tiến triển có thể gây đau sâu ở phía dưới lưng, hông, hoặc đùi trên.
Tuyến tiền liệt phình to hay ung thư tuyến tiền liệt?
Tuyến tiền liệt có thể phình to khi đàn ông có tuổi, đôi khi lấn vào bàng quang hay niệu đạo và gây ra các triệu chứng tương tự như ung thư tuyến tiền liệt. Tình trạng này gọi là tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (BPH). Tình trạng này không phải là ung thư và có thể được điều trị nếu triệu chứng trở nên khó chịu. Vấn đề thứ ba có thể gây ra các triệu chứng ở đường tiết niệu là viêm tuyến tiền liệt. Viêm hay nhiễm trùng có thể gây sốt và trong nhiều trường hợp được điều trị bằng thuốc.
Những yếu tố nguy cơ không thể kiểm soát.
Lớn tuổi là yếu tố nguy cơ lớn nhất đối với ung thư tuyến tiền liệt, đặc biệt là sau tuổi 50. Sau tuổi 70, các nghiên cứu cho thấy hầu hết đàn ông mắc một số dạng ung thư tuyến tiền liệt, mặc dù có thể không có triệu chứng bên ngoài. Tiền sử gia đình cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh: có cha hay anh em bị ung thư tuyến tiền liệt sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh. Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ cao và có tỷ lệ mắc bệnh mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao nhất thế giới.
Những điều tưởng tượng về ung thư tuyến tiền liệt.
Một số điều không phải là nguyên nhân gây ung thư tuyến tiền liệt: quan hệ tình dục quá nhiều, phẫu thuật thắt ống dẫn tinh, và thủ dâm. Nếu tuyến tiền liệt bị phình to (BPH), không có nghĩa là có nguy cơ tiến triển thành ung thư tuyến tiền liệt. Các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu liệu việc uống rượu, mắc những bệnh lây qua đường tình dục (STDs), hay viêm tuyến tiền liệt có đóng vai trò trong sự phát triển ung thư tuyến tiền liệt không?
Ung thư tuyến tiền liệt có thể được phát hiện sớm?
Những xét nghiệm tầm soát có thể sớm phát hiện ung thư tuyến tiền liệt, nhưng những hướng dẫn điều trị không khuyến cáo xét nghiệm thường xuyên ở nam giới mọi lứa tuổi. Những xét nghiệm này có thể phát hiện ung thư đang phát triển chậm mà những liệu pháp điều trị y tế sẽ không mang lại lợi ích. Và chính các liệu pháp điều trị này có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyên nam giới nên nói chuyện với bác sĩ về những xét nghiệm tầm soát, bắt đầu từ:
- 50 tuổi đối với những nam giới có nguy cơ trung bình có thể sống ít nhất 10 năm nữa.
- 45 tuổi đối với nam giới có nguy cơ cao. Nguy cơ này bao gồm: là người Mỹ gốc Phi, có cha, anh trai hay con trai bị chẩn đoán mắc bệnh trước 65 tuổi.
- 40 tuổi đối với nam giới có hơn một lần đầu tiên được chẩn đoán mắc bệnh khi còn trẻ.
Tầm soát: DRE và PSA.
Đầu tiên, bác sĩ có thể thực hiện kiểm tra trực tràng kỹ thuật số (DRE), bác sĩ sử dụng một ngón tay đeo găng để kiểm tra trực tràng, khi đó bác sĩ có thể cảm nhận một bướu thịt trên tuyến tiền liệt. Sau khi thảo luận với bác sĩ, việc xét nghiệm máu có thể được sử dụng để đo kháng nguyên đặc trưng tuyến tiền liệt (PSA), một loại protein được sản sinh bởi các tế bào tuyến tiền liệt. Nồng độ protein này càng cao thì nguy cơ mắc bệnh ung thư càng cao, nhưng vẫn có trường hợp, nồng độ protein này cao nhưng vẫn không mắc bệnh ung thư. Cũng có trường hợp nồng độ PSA ở mức bình thường nhưng bệnh ung thư vẫn hiện hữu.
Kết quả xét nghiệm PSA.
Nồng độ PSA bình thường là dưới 4 nanogram trong một mililit (ng/ml) máu. Trong khi đó, nồng độ PSA trên 10 ng/ml cho thấy nguy cơ cao mắc bệnh ung thư. Nhưng có nhiều trường hợp ngoại lệ:
- Đàn ông có thể bị ung thư tuyến tiền liệt với nồng độ PSA nhỏ hơn 4 ng/ml máu.
- Tuyến tiền liệt bị viêm (viêm tuyến tiền liệt) hay phình to (BPH) có thể gia tăng nồng độ PSA, nhưng những những thử nghiệm xa hơn nữa cho thấy không có bằng chứng nào của bệnh ung thư.
- Một số thuốc BPH có thể làm giảm nồng độ PSA, cho dù ung thư tuyến tiền liệt có hiện hữu hay không, được gọi là âm tính giả.
Nếu nồng độ PSA hay xét nghiệm DRE đều bất thường, bác sĩ sẽ yêu các xét nghiệm khác.
Sinh thiết tiền liệt tuyến.
Nếu việc khám lâm sàng hay xét nghiệm PSA cho thấy có vấn đề, bác sĩ có thể đề nghị làm sinh thiết. Một chiếc kim nhỏ được dùng để đâm qua hoặc là thành trực tràng hoặc là lớp da giữa trực tràng và bìu. Nhiều mẫu mô nhỏ được thu thập và kiểm tra dưới kính hiển vi. Sinh thiết là cách tốt nhất để phát hiện ung thư và dự đoán liệu ung thư đang phát triển chậm hay có xâm lấn.
Sinh thiết và Thang điểm Gleason.
Một nhà nghiên cứu bệnh học đã tìm kiếm các tế bào bất thường và “tính điểm” trên các mẫu mô từ 1 đến 5. Tổng của hai điểm Gleason là thang điểm Gleason. Thang điểm này giúp xác định nguy cơ lây lan của bệnh ung thư. Thang điểm từ 2 thì ung thư ít xâm lấn, thang điểm đến 10 là ung thư xâm lấn nhiều. Thang điểm Gleason giúp bác sĩ hướng khuyến cáo liệu pháp điều trị.
Hình ảnh ung thư tuyến tiền liệt.
Trong hình ảnh MRI hiển thị ở đây, khối u màu xanh lá cây, có hình dạng quả thận ở trung tâm, bên cạnh tuyến tiền liệt (màu hồng).
Một số nam giới có thể cần được kiểm tra bổ sung để xem ung thư đã di căn ra ngoài tuyến tiền liệt hay chưa. Có thể bao gồm siêu âm, CT scan, hoặc chụp MRI. Một phim chụp xương với 1 mũi tim chất phóng xạ nồng độ thấp giúp phát hiện ung thư đã di căn đến xương.
Giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt
Giai đoạn giúp mô tả bệnh ung thư tuyến tiền liệt đã lan rộng (di căn) xa đến đâu và giúp xác định liệu pháp điều trị tốt nhất.
- Giai đoạn I: Khối ung thư nhỏ và vẫn nằm trong tuyến tiền liệt.
- Giai đoạn II: Khối ung thư phát triển hơn, nhưng vẫn còn nằm giới hạn trong tuyến tiền liệt.
- Giai đoạn III: Ung thư đã lan rộng đến phần ngoài của tuyến tiền liệt và túi tinh nằm gần đó.
- Giai đoạn IV: Ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết, gần các cơ quan lân cận hay các mô như bàng quang, hay trực tràng, hay những cơ quan nằm xa hơn như xương hay phổi.
Tỷ lệ tồn tại khi mắc ung thư tuyến tiền liệt.
Tin tốt về bệnh ung thư tuyến tiền liệt là bệnh thường phát triển chậm. Và 9 trong 10 trường hợp được phát hiện trong giai đoạn đầu. Nhìn chung, tỷ lệ sống khoảng 5 năm đối với 100% bệnh nhân mắc ung thư giới hạn ở tuyến tiền liệt hoặc các mô lân cận, nhiều người có thể sống lâu hơn nữa. Khi ung thư đã di căn đến các khu vực xa hơn, tỷ lệ giảm xuống còn 28%. Nhưng tỷ lệ này dựa trên những người đàn ông được chẩn đoán ít nhất là cách đây 5 năm. Ngày nay, triển vọng có thể tốt hơn cho bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị.
Điều trị: Theo dõi thận trọng.
Với ung thư có nguy cơ thấp, có một lựa chọn là theo dõi và chờ đợi. Liệu pháp điều trị này được xác định bằng sinh thiết, xét nghiệm PSA, và thang điểm Gleason. Bác sĩ sẽ kiểm tra định kỳ. Liệu pháp điều trị khác cho những nguy cơ về vấn đề sinh sản hay tiết niệu có thể không cần thiết. Một số đàn ông lớn tuổi hoặc tình trạng sức khỏe đang nghiêm trọng có thể không cần điều trị. Tuy nhiên, liệu pháp điều trị xâm lấn thường được khuyến cáo ở những người đàn ông trẻ tuổi hay ở những người mắc bệnh xâm lấn nhiều hơn.
Điều trị: Xạ trị.
Dùng tia bức xạ bên ngoài để tiêu diệt tế bào ung thư có thể được sử dụng như liệu pháp điều trị đầu tiên hay sau khi phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt. Xạ trị có thể giúp giảm đau khi ung thư di căn đến xương. Ở phương pháp brachytherapy, viên phóng xạ nhỏ có kích thước một hạt gạo được đưa vào tuyến tiền liệt. Cả hai phương pháp có thể làm giảm chức năng cương dương. Các tác dụng phụ có thể có như mệt mỏi, các vấn đề về đường tiết niệu, tiêu chảy.
Điều trị: Phẫu thuật.
Cắt bỏ tuyến tiền liệt, hoặc cắt bỏ tuyến tiền liệt bằng tia xạ, được sử dụng để loại bỏ các khối ung thư khi nó còn nằm trong tuyến tiền liệt. Những kỹ thuật mới sử dụng vết mổ nhỏ hơn và cố gắng tránh gây tổn hại các dây thần kinh gần đó. Nếu các hạch bạch huyết cũng bị ung thư, việc cắt bỏ tuyến tiền liệt có thể không phải là lựa chọn tốt nhất. Phẫu thuật có thể làm giảm chức năng tiểu tiện và sinh dục, nhưng có thể cải thiện theo thời gian.
Điều trị: Hormone.
Liệu pháp hormone có thể thu nhỏ hay làm chậm sự phát triển của ung thư, nhưng chỉ khi liệu pháp hormon được sử dụng với liệu pháp khác thì mới có thể loại trừ được ung thư. Sử dụng thuốc hay hormones ngăn việc sản xuất testosterone và hormone nam khác, gọi là nội tiết tố androgen. Tác dụng phụ của liệu pháp này có thể bao gồm các cơn nóng bừng, các mô vú tăng trưởng, tăng cân, và bất lực.
Điều trị: Hóa trị.
Hóa trị giúp tiêu diệt tế bào ung thư trên khắp cơ thể, bao gồm cả những khối u bên ngoài tuyến tiền liệt. Vì vậy, hóa trị được sử dụng để điều trị ung thư di căn nhiều hơn và ung thư không phản ứng với liệu pháp hormone. Phương pháp điều trị thường là tiêm tĩnh mạch với chu kỳ kéo dài 3-6 tháng. Vì hóa trị tiêu diệt các tế bào phân chia nhanh trong cơ thể, có thể bị rụng tóc và miệng lở loét. Các tác dụng phụ khác bao gồm: buồn nôn, nôn, và mệt mỏi.
Điều trị: Phương pháp đông lạnh.
Phương pháp đông lạnh giúp đóng băng và tiêu diệt tế bào ung thư trong tuyến tiền liệt. Phương pháp này không được sử dụng rộng rãi vì có ít thông tin về hiệu quả lâu dài của nó. Phương pháp này ít xâm lấn hơn phẫu thuật, có thời gian phục hồi ngắn hơn. Bởi vì phương pháp đông lạnh làm tổn thương các dây thần kinh nên có khoảng 80% nam giới trở nên bất lực sau khi điều trị bằng phương pháp này. Có thể có cảm giác đau và nóng rát tạm thời trong bàng quang và ruột.
Điều trị: Tim vắc-xin ung thư tuyến tiền liệt.
Vắc-xin này được thiết kế để điều trị, không ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt bằng cách thúc đẩy hệ thống miễn dịch của cơ thể, tấn công tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Tế bào miễn dịch được rút ra khỏi máu, kích hoạt để chống lại ung thư, sau đó truyền lại vào máu. Ba chu kỳ này xảy ra trong một tháng. Phương pháp này được sử dụng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt đang tiến triển, không còn phản ứng với hocmon điều trị. Tác dụng phụ thể nhẹ có thể xảy ra như mệt mỏi, buồn nôn và sốt.
Hy vọng cho ung thư có xâm lấn.
Bác sĩ sẽ tiếp tục theo dõi mức độ PSA và có thể thực hiện các xét nghiệm khác sau khi điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Nếu ung thư tái phát hay lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể, việc điều trị bổ sung có thể được khuyến khích. Lựa chọn lối sống cũng có thể là một vấn đề. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy những người mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt còn sống luyện tập thể thao thường xuyên thì nguy cơ tử vong thấp hơn.
Đối phó với rối loạn cương dương.
Rối loạn chức năng cương dương (ED) là tác dụng phụ của phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Nhìn chung, chức năng cương dương được cải thiện trong vòng hai năm sau khi phẫu thuật. Việc cải thiện có thể tốt hơn ở những người đàn ông trẻ so với những người trên 70 tuổi. Bệnh nhân cũng có thể hưởng lợi từ thuốc ED. Phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như liệu pháp tiêm và các thiết bị hút chân không có thể hữu ích.
Thực phẩm cho sức khỏe.
Một chế độ ăn uống có ý thức về bệnh ung thư có thể là lựa chọn tốt nhất cho bệnh nhân muốn tăng cường sức khỏe của họ và hy vọng giảm nguy cơ. Điều đó có nghĩa:
- Ăn nhiều hơn năm loại trái cây một ngày.
- Ăn ngũ cốc thay cho tinh bột trắng hay gạo trắng.
- Hạn chế thịt có hàm lượng mỡ cao.
- Hạn chế hay loại bỏ thịt chế biến sẵn ( xúc xích, thịt nguội, thịt xông khói).
- Hạn chế uống rượu, chỉ uống khoảng 2-3 ly/ngày (đối với người uống rượu).
Thực phẩm giàu folate có thể chống lại ung thư tuyến tiền liệt (như rau bina, nước cam, đậu lăng). Nghiên cứu cho thấy kết quả khác nhau trên lycopene, một chất chống oxy hóa được tìm thấy trong cà chua.
Tổng hợp tài liệu và dịch | : Ban Thông tin Đào Tạo |
Hiệu đính | : Giám Đốc Y Khoa - Trung Tâm Y Khoa Phước An |
Mã tài liệu | : 01071401(*) |